Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

Văn - Thơ tiểu học (Phần 7)

92. LÊN CAO 

Kìa anh thợ điện lên cao 
Chào anh gió hát rì rào hàng dương
 
Líu lo chim hót yêu thương
 
Từng đôi sà xuống lượn vờn quanh anh
 
Trời xanh xanh đất xanh xanh
 
Dáng anh đứng giữa mênh mông đất trời
 
Mắc muôn dòng điện sáng ngời
 
Về nơi xóm vắng về nơi thị thành
 
Mai sau em lớn bằng anh
 
Em đi mắc điện sáng quanh địa cầu.

93. Nắng 

Nắng lên cao theo bố
 
Xây thẳng mạch tường vôi
 
Lại trải vàng sân phơi
 
Hong thóc khô cho mẹ.
 
Nắng chạy nhanh lắm nhé
 
Chẳng ai đuổi kịp đâu.
 
Thoắt đã về vườn rau
 
Soi cho ông nhặt cỏ
 
Rồi xuyên qua cửa sổ
 
Nắng giúp bà xâu kim.

94. Mồng hai tháng chín 
Tố Hữu 

Hôm nay sáng mồng hai tháng chín 
Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình
 
Muôn triệu tim chờ chim vẫn nín
 
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
 
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh
 

Người đứng trên đài lặng phút giây
 
Trông đàn con đó vẫy hai tay
 
Cao cao vầng trán ngời đôi mắt
 
Độc lập bây giờ mới thấy đây.

95. MÙA CAM 

Mía ngọt dần lên ngọn
 
Gió heo may chớm sang,
 
Trái hồng vừa trắng cát
 
Vườn cam đã chín vàng...
 
Cam Xã Đoài mọng nước
 
Giọt vàng như mật ong,
 
Bổ cam ngoài cửa trước
 
Hương bay vào nhà trong..
 

96. LỜI KHUYÊN CỦA BỐ (trích trong Những tấm lòng cao cả)

Con yêu quý của bố! Học quả là khó khăn, gian khổ. Bố muốn con đến trường với lòng hăng say và niềm phấn khỡi. Con hãy nghĩ đến những người thợ tối tối đến trường sau một ngày lao động vất vả??? đến những người lính vừa ở thao trường về là ngồi vào bàn đọc đọc, viết viết.Con hãy nghĩ đến các em nhỏ bị câm hoặc điếc mà vẫn thích đi học.
Khi một ngày mới bắt đầu ,tất cả trẻ em trên thế giới đều cắp sách đến trường.Những học sinh ấy hối hả bước trên khắp các nẻo đường ở nông thôn,trên những phố dài của các thị trấn đông đúc,dưới trời nắng gắt hay trong tuyết rơi.Từ những ngôi trường xa xôi trên miền tuyết phủ của nước Nga đến những ngôi trường hẻo lánh núp dưới hàng cọ của xứ A- rập.Hàng triệu,hàng triệu trẻ em cùng đi học.Con hãy tưởng tượng mà xem:Nếu phong trào học tập ấy ngừng lại thì nhân loại sẽ bị chìm đắm trong cảnh ngu dốt,trong sự dã man.
Hãy can đảm lên hỡi người chiến sĩ của đạo quân vĩ đại kia! Sách vở của con là vũ khí, lớp học của con là chiến trường ,hãy coi sự ngu dốt là thù địch. Bố tin rằng con luôn luôn cố gắng và sẽ không bao giờ là người lính hèn nhát trên mặt trận đầy gian khổ ấy.


97. Hạt gạo làng ta
Trần Đăng Khoa

Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt ngào hôm nay.

Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy

Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà
Những năm cây súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
 
Vàng như lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
thơm hào giao thông.

Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
vục mẻ miệng gầu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang chùng quết đất.

Hạt gạo làng ta
gửi ra tiền tuyến
gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta.


-----------------------------------------


98. Ai thổi sáo gọi trâu đây đó 
Chiều in nghiêng trên mảng núi xa
 
Con trâu trắng dẫn đàn lên núi
 
Vểnh đôi tai nghe sáo trở về
 

Trâu đực chạy rầm rầm như hổ
 
Trâu thiến dong từng bước hiền lành
 
Cổ lừng lững như chum, như vại
 
Móng hến hằn in mép cỏ xanh 
 

Nhưng chú nghé lông tơ mũm mĩm
 
Mũi phập phồng dính cánh hoa mua
 
Cổng trại mở trâu vào chen chúc
 
Chiều rộn ràng trong tiếng nghé ơ


---------------------------------------------


99. Đi qua xóm núi Thậm Thình
Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm
Vua Hùng một sáng đi săn
Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này,
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh chưng mấy cặp, bánh dày mấy đôi
Đẹp lòng vua phán bầy tôi
Tìm đất kén thợ, định nơi xây nhà
Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chày đôi với chày ba rập rình
Đêm đêm tiếng thậm tiếng thình
Gối gạo đầy cả nghĩa tình nước non

Không còn dấu cũ lầu son
Phía sau thành phố khói vờn trong mây
Trời cao bóng tỏa đường cây
Nhịp chày xưa thoảng đâu đây Thậm Thình."


---------------------------------------
100. THĂM CÕI BÁC XƯA
-Tố Hữu-

Anh dắt em vào cõi Bác xưa 
Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa
 
Có hồ nước lặng sôi tǎm cá
 
Có bưởi cam thơm, mát bóng dừa.
 

Có rào râm bụt đỏ hoa quê
 
Như cổng nhà xưa Bác trở về
 
Có bốn mùa rau tươi tốt lá
 
Như những ngày cháo bẹ mǎng tre....
 

Nhà gác đơn sơ, một góc vườn
 
Gỗ thường mộc mạc, chẳng mùi sơn
 
Giường mây chiếu cói, đơn chǎn gối
 
Tủ nhỏ, vừa treo mấy áo sờn.
 

Máy chữ thôi reo, nhớ ngón đàn
 
Thong dong chiếc gậy gác bên bàn
 
Còn đôi dép cũ, mòn quai gót
 
Bác vẫn thường đi giữa thế gian...
 

Bụt mọc dầm chân đứng đợi ai (*)
 
Quanh hồ thấp thoáng bóng hôm mai
 
Ngọn đèn kia thức bên ai đó
 
Mà dạ hương còn phảng phất bay!
 

Ô vẫn còn đây, của các em
 
Chồng thư mới mở, Bác đang xem
 
Chắc Người thương lắm lòng con trẻ
 
Nên để bâng khuâng gió động rèm...
 

Con cá rô ơi, chớ có buồn
 
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn
 
Dừa ơi, cứ nở hoa đơm trái
 
Bác vẫn chǎm tay tưới ướt bồn
 

Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
 
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
 
Chỉ biết quên mình, cho hết thảy
 
Như dòng sông chảy, nặng phù sa.


101. TỪ CUBA

Nửa vòng trái đất rẽ tầng mây 
Anh đến Cuba một sáng ngày
 
Nắng rực trời tơ và biển ngọc
 
Đảo tươi một dải lụa đào bay
 


Em ạ Cuba ngọt lịm đường
 
Lúa xanh đồng bãi biếc đồi nương
 
Cam ngon xoài ngọt vàng nông trại
 
Ong lạc đường hoa rộn bốn phương
 

Anh mải mê nhìn, anh mải nghe
 
Múa reo theo gió những thân kè
 
Tóc xanh xõa bóng hàng chân trắng
 
Có phải tiên nga dự hội hè
 

Mừng bạn ngày vui chén rượu đầy
 
Hết buồn chưa hết nhớ chua cay
 
Em ơi mía ngọt từng khi mặn
 
Máu trộn bùn vun gốc mía này
 

Ngày xưa bạn hỡi mới dăm năm
 
Roi vọt trên lưng thịt tím bầm
 
Như mía ngày xưa bao trận cháy
 
Đã bừng như mía lửa hờn căm
 

Đêm đã qua rồi những buổi mai
 
Anh đi quanh phố dọc đường dài
 
Biển xanh trước mặt, bao la biển
 
Gió lộng triều vui rộn pháo đài
 

Chào cô em gái nữ dân quân
 
Súng vác ngang vai đẹp tuyệt trần
 
Lóng lánh mắt đen nhìn biển biếc
 
Trưa hè đứng gác giữ ngày xuân
 

Trông em mà tưởng ở quê nhà
 
Cô gái Hòn Gai canh đảo xa
 
Nhớ chị miền Nam lùng đuổi giặc
 
Giữa lau Đồng Tháp, mía Tuy Hòa
 

Thấp thoàng ngoài khơi những bóng ma
 
Hai con tàu Mỹ ngó dòm ta
 
Oh hay bay vẫn ngu hoài vậy
 
Không thấy Cuba đứng đấy à
 

Ở đây với bạn những ngày qua
 
Anh nhớ vô cùng đất nước ta
 
Mai mốt em ơi, rời xứ bạn
 
Anh về e lại nhớ Cuba
 

102. BẾP LỬA

Bằng Việt (1963)

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, 
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
 
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
 

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói,
 
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
 
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
 
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu,
 
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
 

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa,
 
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa.
 
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà ?
 
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế,
 
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế.
 
Mẹ cùng cha bận công tác không về,
 
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
 
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
 
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
 
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà,
 
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
 

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi,
 
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi,
 
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
 
Vẫn vững lòng, bà dặc cháu đinh ninh:
 
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố,
 
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
 
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".
 

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen!
 
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
 
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng,
 
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa!
 

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ,
 
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,
 
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
 
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi,
 
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui,
 
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
 
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
 

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
 
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
 
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:
 
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?


103. Giàn Muớp ( trích " Hoa Nắng " 

Thật là tuyệt! Mấy bông hoa vàng như những đốm nắng đã nở sáng trưng giàn mướp xanh mát. Cái giàn trên mặt ao soi bóng xuống làn nước lấp lánh hoa vàng, khiến mấy chú cá rô cứ lội quanh lội quẩn ở đó chẳng muốn đi đâu. Cứ thế, hoa nở tiếp hoa. Rồi quả thi nhau chồi ra. Bằng ngón tay. Bằng con chuột. Rồi bằng con cá chuối to. Có hôm hai chị em tôi hái không xuể. Nhà ăn không hết, bà tôi sai mang biếu cô tôi, dì tôi, cậu tôi, chú tôi, bác tôi, mỗi nhà một quả. Đậu quả nhiều quá, hai cây mướp rạc dần. Bà tôi chọn hai quả mướp đẹp nhất ở hai giàn, bà đánh dấu không cho hái. Bà bảo để làm giống. Cuối mùa, hai giàn mướp xơ xác. Quả mướp giống tròn mập lắt léo phơi ra giữa trời, nắng xói từ sớm tới chiều, hết ngày này qua ngày khác. Khi nó đã khô, nhẹ bỗng như cái tổ chim, bà tôi cắt xuống, để lên gác bếp. Tôi cầm quả mướp khô, lắc lắc. Những hạt mẩy nhảy roọc rẹc ở trong ấy. ôi, nó chịu nắng giỏi đến thế, hèn nào mà hoa nó vàng thật là vàng... 

104. Giàn bầu (Tập đọc lớp 3)

“Giàn bầu nậm ở ngoài sân, dây leo và lá chằng chịt lấp chặt ô giàn nứa, đã làm dịu hẳn cái nắng tháng tư ở trước mặt nhà.Gió nam từ ngoài luỹ tre già thưa đưa vào, làm va đụng vào nhau của những bình rượu của Tự Nhiên.. Những quả bầu mà được cứng lần cùi như chất vỏ cây khô, thì mỗi khi cơn gió vèo đẩy những bình rượu ấy văng cụng vào nhau, người ta sẽ nghĩ ngay đến cái hình và cái tiếng của lũ khánh đất nung và cá đất nung ở cái sân cảnh một gia đình thanh bạch.Trái bầu nậm còn tươi dưới lỗ giàn làmột cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và bóng!”
(Trích: Ngôi mả cũ - Nguyễn Tuân)

















Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét